LaoHac4rum
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Go down
avatar
laohac
Admin
Tổng số bài gửi : 73
Join date : 05/11/2017
Đến từ : Đà Nẵng
https://laohac4rum.forumvi.com

Tôn Giả A Nan - Phần 3 Empty Tôn Giả A Nan - Phần 3

Thu Nov 09, 2017 6:29 pm
9.- MỘNG VÀ NHỮNG DỰ ĐOÁN:

Trong 27 năm làm thị giả cho đức Thế Tôn, tôn giả A Nan đã tỏ ra có khả năng quán xuyến mọi công việc. Từ quí vị tì kheo, tì kheo ni, cho đến các tín đồ tại gia, ai muốn tham bái Phật, tôn giả đều sắp đặt giờ giấc thích hợp. Quí vị, ti kheo từ các địa phương xa xôi về thăm Phật, trong khi chờ được diện kiến, họ đều tỏ ra rất vui vẻ được đàm đạo cùng tôn giả; đó cũng chỉ vì cách đối xử luôn luôn thân thiết của tôn giả dành cho mọi người. Quí vị tì kheo ni rất thích được nghe tôn giả chỉ bảo. Mỗi khi nghe tôn giả nói: “Này quí sư tỉ, sư muội, hãy giữ gìn giới luật một cách cẩn trọng đó nghe!” là họ răm rắp vui vẻ tuân hành. Các tín đồ tại gia nam nữ cũng rất thích nghe tôn giả nói pháp. Tôn giả thường dạy họ tôn kính Tam Bảo, thọ trì năm giới, phụng dưỡng cha mẹ, cúng dường chúng tăng.

Ngày tháng qua mau, theo Phật đi hành hóa các nơi, mới đó mà tôn giả đã hơn 50 tuổi! Một hôm, Phật đang nói pháp cho vua Ba Tư Nặc tại thành Xá Vệ, thì trông thấy sắc diện A Nan lộ rõ nét ưu sầu một cách khác thường. Phật hỏi nguyên do thì tôn giả bạch rằng, trong một đêm kia tôn giả nằm mộng thấy bảy sự việc lạ lùng chưa từng có, khiến cho tâm thần cứ bị hoảng hốt. Phật lại hỏi:

- Bảy sự việc gì thế?

- Bạch Thế Tôn! Đầu tiên con thấy lửa phát cháy dữ dội, thiêu đốt khắp cả sông biển; ngọn lửa bốc cao đến tận trời xanh!

Nghe thế, Phật xúc động mạnh. Ngài giải thích:

- Này A Nan! Đáng lẽ Như Lai không nói chuyện mộng mị, nhưng rõ ràng là giấc mộng của thầy quả thật là bất tường. Sông biển đều bị thiêu đốt là điềm báo trước rằng, tăng đoàn trong đời vị lai, người thánh thiện thì rất ít, mà phần lờn là những phần tử xấu. Những hạng này, tuy được hưởng sự cúng dường đầy đủ nhưng vẫn thường xuyên khởi xướng các vụ tranh chấp với nhau, giống như mặt nước đang trong xanh bỗng bừng dậy lửa dữ. A Nan, còn việc thứ hai?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy mặt trời rơi xuống, cõi Ta Bà này hoàn toàn tối đen, cả trăng sao cũng đều biến mất!

- Này A Nan! Không còn bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập niết bàn, và các vị đệ tử lớn của Như Lai cũng lần lượt sắp nhập niết bàn! A Nan, còn việc thứ ba?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy các vị tì kheo không mặc áo cà sa do Thế Tôn chế định. Hàng tăng chúng xuất gia thì bị vùi dập trong hầm hố, còn hàng cư sĩ tại gia thì dẫm lên đầu họ mà đi!

Phật thở dài thật nhẹ, rồi giảng giải:

- Này A Nan! Điều này ám chỉ rằng, trong đời vị lai, rất nhiều các vị tì kheo mở đạo tràng diễn thuyết kinh điển, nhưng chỉ nói suông ở cửa miệng mà không chịu hành trì tu tập. Họ ganh tị nhau và tìm cách hại nhau, không sợ nhân quả, cuối cùng phải chịu đọa lạc. Trong khi đó thì hàng bạch y cư sĩ thừa cơ lên mặt, khinh miệt Tăng Bảo hễ đến chùa viện là phỉ báng tăng chúng, phá hoại chùa tháp! A Nan, còn việc thứ tư?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy quí vị tì kheo y áo tả tơi và cứ lẩn quẩn trong chốn chông gai.

- Này A Nan! Việc đó nói lên rằng, trong đời vị lai sẽ có hạng tì kheo bỏ pháp y không mặc bỏ giới pháp để theo thế tục hưởng lạc, vợ con đùm đề, thật là bất hạnh cho Phật pháp! A Nan, còn việc thứ năm?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy nơi rừng rậm bỗng xuất hiện một bầy heo rừng cùng ào tới đào gốc bốc rễ một cây chiên đàn to lớn xanh tươi.

- Này an! Trong đời vị lai sẽ có hạng tì kheo chỉ lo tính toán việc sinh kế vì lợi dưỡng mà đem cả Phật ra bán buôn. A Nan, còn việc thứ sáu?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy con voi mẹ bỏ mặc đàn voi con. Trong khi đó, một con sư tử chết đi chưa được bao lâu thì dòi bọ từ trong thân thể nó sinh ra, rồi dòi bọ ấy trở lại ăn thịt nó.

- Này A Nan! Trong đời vị lai sẽ có hạng trưởng lão trong tăng chúng chỉ biết lo cho lợi dưỡng riêng tư, đối với hàng hậu sinh thì bỏ mặc, không lưu tâm dìu dắt, cũng như con voi mẹ bỏ mặc đàn con, còn những loài dọ bọ sinh ra từ thân thể sư tử rồi trở lại ăn thịt sư tử là ám chỉ rằng, sẽ không có hàng ngoại đạo nào có thể hủy hoại được Phật pháp, mà chỉ có chính những hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Phật mới tụ hủy hoại Phật pháp mà thôi. A Nan, còn việc thứ bảy?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy đầu con đội núi Tu Di, nhưng con không cảm thấy nặng chút nào.

Nét mặt như đượm chút ngậm ngùi, Phật dạy:

- Này A Nan! Còn ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập niết bàn. Sau đó, toàn thể tăng đoàn, quần chúng và chư thiên sẽ tín nhiệm và yêu cầu thầy kết tập kinh điển.

Lời giải thích của Phật về bảy sự việc lạ lùng trong giấc mộng của tôn giả A Nan được coi là những dự đoán của Ngài về tình trạng suy đồi của đạo pháp trong đời vị lai. Riêng về điều “dòi bọ trong thân thể sư tử trở lại ăn thịt sư tử” đã là một lời dạy chí tình nhưng thật chua xót dành cho tất cả Phật giáo đồ cả tăng lẫn tục ngày nay. Nếu chúng ta biết hổ thẹn thì hãy cố gắng làm sao cho những lời dự đoán trên kia không trở thành sự thật; được vậy, Phật sẽ hoan hỉ biết bao nhiêu!

10.- THỈNH GIÁO LẦN CUỐI TRƯỚC GIỜ PHÚT PHẬT NHẬP NIẾT BÀN:

Bốn mươi chín năm sau ngày thành đạo, từ chỗ động trở về chỗ tĩnh, tại thành Câu Thi Na (Kusinagara - Kusinara), cách thành Ca Tì La Vệ hơn ba mươi dặm, trong rừng cây Sa la, đức Thế Tôn tuyên bố nhập niết bàn. Giống như mặt trời lúc sắp lặn phát ra thứ ánh sáng đẹp đẽ rạng ngời, trước giờ phút nhập niết bàn, kim thân Phật cũng phát tỏa hào quang rực rỡ khác với ngày thường. Tôn giả A Nan vẫn phục thị bên cạnh Phật với tâm thành thầm cảm ân đức dạy dỗ của Ngài từ bấy lâu nay, mà giờ đây phước đức cũng như trí tuệ của tôn giả đã đến chỗ thành thục.

Tôn giả đã sửa soạn xong chỗ nằm cho Phật. Ngài nằm xuống trong tư thế cát tường, đầu hướng về phương bắc, mặt hướng về phương tây.

Mặt trời lặn dần, màn đêm từ từ buông xuống bao phủ khắp thế gian. Mùa này không phải là mùa hoa nở của cây Sa la, nhưng hoa Sa la đang nở rộ khắp khu rừng! Và hoa đang rơi rải rác chung quanh Phật. Tôn giả quì sát bên Ngài, thưa thật nhỏ:

- Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, đối với nữ giới, chúng con nên có thái độ như thế nào? Xin Thế Tôn dạy cho chúng con một lần nữa.

Phật nhìn khắp lượt các vị đệ tử đang quì chung quanh rồi dạy:

- Này A Nan! Người đã có quyết tâm cởi bỏ phiền não để tiến bước trên đường giác ngộ thì không bao giờ để cho hình bóng người đàn bà ngự trị trong tâm mình. Riêng về thầy, tuy bây giờ tuổi cũng đã sắp về già, nhưng nếu thầy đừng nhìn tới đàn bà thì vẫn tốt hơn. Trong trường hợp bất khả kháng, không thể không nhìn được, nếu thấy một bà già thì thầy nên xem bà ấy là mẹ mình; nếu là một thiếu phụ lớn hơn mình chút ít thì xem đó là chị mình; nếu là một thiếu nữ trẻ hơn mình thì xem đó là em mình ... A Nan, thầy hãy nhớ kĩ những lời Như Lai vừa nói!

Dạy những lời trên xong, Phật lại dặn dò tỉ mỉ các việc về trà tì, xây tháp v.v... Tôn giả vốn người đa cảm, nên khi những lời giáo huấn ấy thì nghĩ ngay rằng, đây chính là những lời dạy sau cùng của Phật, bất giác lòng đau quặn thắt, nước mát chảy đầm đìa, rồi không dám quì bên cạnh Phật nữa, trốn ra đứng ở một góc vắng, khóc sướt mướt ... Tôn giả nghĩ, Phật sắp nhập niết bàn rồi, những huynh đệ khác đều đã khai ngộ mà chỉ riêng mình thì vẫn còn tối tăm, rồi đây mình sẽ trông cậy vào ai để được khai ngộ! Tôn giả lại nghĩ, từ đây đâu còn bậc ân sư để được hầu hạ! Càng nghĩ đến những điều ấy, tôn giả càng thấy đau đớn như đứt từng khúc ruột!

Phật nhìn lại không thấy A Nan đâu, liền sai người đi tìm. Tôn giả trở lại quì chỗ cũ, Phật an ủi:

- A Nan! Thầy không nên đau buồn nữa! Có hội họp thì có chia li, có lúc phồn vinh thì cũng có lúc suy tàn, không phải Như Lai đã từng nói với thầy như thế sao! Thế gian là vô thường có sinh thì nhất định phải có tử, đem sửa lại một chiếc xe hư để dùng thì đâu phải là biện pháp lâu bền! Cái xác thân hữu vi này sẽ hoại diệt, nhưng pháp tính Như Lai sẽ bảo hộ quí thầy. A Nan! Thầy hầu hạ Như Lai đã rất lâu, rất siêng năng và chịu khó. Thầy đối với Như Lai hoàn toàn không có điều gì sơ suất. Như Lai đem mọi công được để đền đáp cho thầy. Thầy hãy tinh tấn lên, không bao lâu nữa thầy sẽ cởi bỏ được mọi sự trói buộc của phiền não và chứng ngộ đạo giải thoát.

Tôn giả lại xúc động, nhưng phải cố nén tiếng khóc. Phật nhìn khắp đại chúng nói:

- Này quí thầy! Trong bao nhiêu năm qua, đại đức A Nan đã thân cận và săn sóc Như Lai hết lòng. Đại đức là người nhu hòa, hiền lành, nghe pháp không bao giờ quên. Công đức của đại đức sẽ sáng rỡ mãi ở thế gian!

Tôn giả lại phải lấy tay che mặt khóc, và một lần nữa, bỏ trốn ra ngoài. Hôm ấy là ngày trăng tròn của trung tuần tháng Hai. Ánh sáng trăng trong mát, bàng bạc chiếu tỏa khắp rừng Sa la. Tâm đức tịch tịnh, cao vọi của Phật cũng thấm đượm toàn thể mọi người có mặt. Đã không có cách gì giúp giữ được bầu không khí nghiêm tịnh lúc đó, vì mọi người trong đại chúng, ai cũng khóc lóc bi thương; vả chăng, dù quí vị đã là các bậc thánh chứng đạo đi nữa, cũng làm sao thoát khỏi tình người trong giờ phút ấy!

Đại chúng cứ khóc mãi không thôi, nhưng họ cũng bảo nhau, nước mắt thì làm được gì trong lúc này! Tại sao không cùng nhau hội ý để xin Phật chỉ giáp cho những vấn đề có liên quan đến sự trường tồn của chánh pháp, há chẳng tốt hơn ư! Họ lại ra ngoài tìm A Nan vào, và cử tôn giả làm đại diện cho đại chúng để xin tham vấn Phật những vấn đề như sau: 1) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, đại chúng sẽ tôn ai làm thầy? 2) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, đại chúng sẽ lấy gì để an trụ? 3) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, đại chúng sẽ đối xử với kẻ ác như thế nào? 4) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, khi đại chúng kết tập kinh điển, muốn cho mọi người tin tưởng thì phải làm sao?

Vẫn với vẻ mặt từ ái như thường ngày, Phật dạy:

- Này A Nan! Thầy và đại chúng hãy nhớ kĩ! Quí thầy hãy lấy giới luật làm Thầy, hãy y vào bốn đối tượng quán niệm (tứ niệm xứ) mà an trú; gặp kẻ ác thì hãy tránh xa; khi kết tập kinh điển, hãy bắt đầu mỗi câu kinh bằng câu “Tôi nghe như thế này”. Quí thầy nên đúng như pháp mà tu tập, vì đó là chính là pháp thân thường tại của Như Lai!

Âm thanh của Phật nghe uy nghiêm làm sao! Nghe tiếng nói ấy, mọi người đều thấy chấn động, lại đau xót buồn thương! Và Phật nhập niết bàn ngay khi đó! ...

Đẹ tử Phật ở mười phương nghe tin Phật nhập niết bàn, đều gọi nhau tụ hội về. Tôn giả A Nan nghĩ lại lúc đức Thế Tôn còn tại thề, giới nữ lưu rất ít có cơ hội được diện kiến tham bái Ngài, nên giờ đây tôn giả dành ưu tiên cho quí vị tì kheo ni và nữ cư sĩ được vào lạy Phật trước. Thế đủ thấy, lúc nào tôn giả cũng tỏ lòng ưu ái và cảm thông đối với nữ giới!

11.- THAM DỰ ĐẠI HỘI KẾT TẬP KINH ĐIỂN:

Phật nhập niết bàn rồi, A Nan cảm thấy mình như đứa con dại vừa mất mẹ hiền! Sau khi lễ ti hoàn mãn, tôn giả một mình trở về tu viện để tưởng niệm bậc Ân Sư. Trong những ngày qua phải chịu bao lao nhọc, giờ đây thân thể mệt mỏi, tôn giả bèn đóng cửa phòng để tĩnh tâm. Mỗi ngày tôn giả chỉ uống một ít sữa, không ăn một thức ăn gì, không nói một lời nào, liên tiếp ba ngày như vậy. Sau đó, tôn giả hướng về phương Nam, đi về thành Vương Xá để tham dự đại hội kết tập kinh điển sẽ được khai mạc vào đầu mùa an cư - Ngày Rằm tháng Tư sắp tới. Tuy chưa chứng ngộ, nhưng giáo pháp của Phật, tôn giả đã giữ một địa vị vô cùng trọng yếu. Vì vậy, tôn giả không thể không quên mình vì đạo pháp; hơn nữa, chuyến đi này cũng là cơ hội để tôn giả đền đáp pháp thân huệ mạng cho đức Ân Sư.

Trên đường đi về Vương Xá, tôn giả đã ghé lại thành phố Tì Xá Li. Một số vị tì kheo từng đi theo tôn giả, tới đây thì bị thất lạc, rồi mỗi người tự mình đi riêng. Vì chuyện này, khi về đến thành Vương Xá, tôn giả đã bị tôn giả Đại Ca Diếp quở trách và đã im lặng chịu lỗi, không dám nói nửa lời.

Tưởng cũng nên nhắc lại, khi A Nan đến Tì Xá Li thì đã hơn một tháng sau ngày Phật nhập diệt. Vì tôn giả là vị cao đệ thường xuyên ở bên cạnh Phật, cho nên bất cứ ai đã từng sùng kính Phật thì giờ đây, một cách tự nhiên, họ đều kéo đến tu viện và quây quần chung quanh tôn giả. Ngày nào họ cũng tụ tập ở tu viện để xin tôn giả nói pháp, bất kể là ban ngày hay ban đêm. Tôn giả không có cách gì từ chối, đành phải chiều ý mà phương tiện khai thị cho họ. Thường trú tại tu viện lúc ấy, có một vị đại đức đã chứng quả, tên là Bạt Xà Phất, vì số tín đồ đến với A Nan quá đông, họ đi lại, nói năng lớn tiếng, ồn ào, phá tan cái không khí an tịnh của tu viện, đã làm trở ngại cho các buổi tham thiền của đại đức.

Ông thầm trách tôn giả không lo tự sách tấn để chứng quả, cho nên đã làm thi kệ để nhắc nhở tôn giả. Bị trách cứ, nhưng vốn tâm tính ôn hòa và hay nhường nhịn, hơn nữa, tự biết phận mình chỉ là một kẻ chưa chứng ngộ, cho nên tôn giả chỉ im lặng, không dám biện bác điều gì. Ngày an cư tại Vương Xá đã gần kề. Trách nhiệm đọc tụng kinh điển cũng to lớn lắm và ai sẽ gánh vác trách nhiệm ấy thì tôn giả cũng đã tự biêt rồi! Trong thời khắc cực kì quan trọng này mà bỏ công sức để nói những bài pháp suông ở đầu môi chót lưỡi thì phỏng có ích gì! Tôn giả bèn quyết định lên đường xuôi Nam.

Không phải là tôn giả không biết trình độ tu chứng của chính mình, nhưng bình sinh tôn giả vốn dễ bị chi phối bởi những nguyện vọng thiết tha chính đáng của tín chúng. Lần này, vừa bị sức khích lệ của tín đồ vừa phải thay họ mà chịu lỗi, vừa bị huynh đệ chê cười, lại nữa, sự trách cứ của đại đức Bạt Xà Phất đã như một mũi tên bắn thẳng vào tim, tôn giả bèn phát nguyện dứt khoát từ nay sẽ xoay chuyển cái tâm hướng ngoại để hướng trở lại vào trong, mong sớm đạt đạo giác ngộ.

Tôn giả về đến thành Vương Xá trước khi đại hội kết tập khai mạc một ngày. Tôn giả Đại Ca Diếp, vị chủ tọa của đại hội kết tập, đã tuyển chọn năm trăm vị tì kheo lớn (đều đã chứng quả A la hán) để mời tham dự kì kết tập này; trong đó không có A Nan, vì tôn giả chưa chứng quả A la hán. Dĩ nhiên là Đại Ca Diếp vẫn công nhận những sở trường của tôn giả - đặc biệt nhất là những kinh gì Phật đã nói, tôn giả đều nhớ kĩ không quên; nhưng kết tập kinh điển là một sự việc vô cùng trọng đại, tôn giả Đại Ca Diếp sợ rằng, nếu để cho một vị chưa diệt hết phiền não tham dự kết tập, thì đối với đức Thế Tôn vừa mới nhập niết bàn cũng như đối với các thế hệ về sau, chẳng biết có vấp phải lỗi lầm gì không! Về phần A Nan, tuy chưa chứng quả, nhưng vì giao tình giữa tôn giả và đại chúng rất tốt đẹp, cho nên lực lượng ủng hộ tôn giả rất mạnh, ai ai cũng lên tiếng bệnh vực cho tôn giả được tham dự kết tập. Dù vậy, tôn giả Đại Ca Diếp vẫn cứng rắn:

- Tôi vẫn biết, tuy đại đức A Nan chưa chứng ngộ, nhưng địa vị của đại đức quả là địa vị sư tử; mặc dù vậy, trong giờ phút hiện tại này đại đức chỉ như con sư tử ở giữa bầy giã can mà thôi!

Tôn giả A Na Luật cũng cùng chung quan điểm với tôn giả Đại Ca Diếp, và đó quả là một sự tập kích bất ngờ đối với A Nan! Nhưng, tôn giả đã không vì vậy mà nản chí, như một người có sức bật lớn, càng bị đè nặng thì sức vọt càng cao; lại cũng như cây mai, cần phải trải qua mùa đông gió tuyết giá băng thì sang xuân hoa mới nở rộ; đối với tôn giả, bao nhiêu sự đả kích đều trở thành là những tăng thượng duyên. Bởi vậy, ngay buổi chiều hôm ấy, tôn giả đã buông bỏ tất cả, trầm tư mặc tửng, nổ lực thiền quán và đến khuya thì hoát nhiên khai ngộ! Sáng hôm sau, tôn giả không đợi mở cửa động, đã dùng thần lực đi vào đại hội.

Toàn thân tôn giả lúc ấy hiển lộ một phong thái đạo mạo, sáng tỏ như mặt trăng vừa ra khỏi đám mây, rạng rỡ như đóa sen mới nở dưới ánh mặt trời buổi sáng, làm cho cả thánh chúng đều kinh ngạc và nhiệt liệt xưng tán. Rồi ngay lúc đó, dưới sự chủ trì của tôn giả Đại Ca Diếp và sự đồng tâm suy cử của toàn thể đại hội, tôn giả lên pháp tòa, bắt đầu đọc tụng “Tôi nghe như thế này, thuở ấy đức Thế Tôn ngự tại ... v.v...” Tất cả những gì đã được nghe và ghi nhớ kĩ, giờ đây tôn giả đọc tụng lại làu làu ... Tất cả quí vị tì kheo hiện diện được nghe lại những lời dạy dỗ của Phật đều vô cùng cảm kích!

Những bộ kinh được kết tập đầu tiên trong kì đại hội danh tiếng này như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Thí Dụ, Pháp Cú v.v... đều do chính tôn giả đọc tụng lại.

12.- NHẬP NIẾT BÀN:

Sau khi Phật nhập diệt, trưởng lão Đại Ca Diếp đã được tôn cử kế thừa y bát của Phật để lãnh đạo giáo đoàn. Rồi 20 năm sau, trưởng lão (lúc ấy đã hơn 100 tuổi) cũng vào núi Kê Túc nhập diệt, sau khi đã phó truyền đạo nghiệp cho tôn giả A Nan (lúc ấy đã hơn 80 tuổi).

Tôn giả kế thừa Phật nghiệp cũng là việc tự nhiên, như hoa nở về mùa xuân; và đó cũng là điều mong mỏi trước đây của đức Thế Tôn.

Như vậy, Phật Giáo đương thời, dưới sự ủng hộ của vua A Xà Thế, đã phát triển một cách bình thường. Đến khi trưởng lão Đại Ca Diếp nhập diệt thì những vị đệ tử lớn thường thân cận bên Phật thuở trước, bây giờ chỉ còn lại một mình tôn giả A Nan.

Một năm trôi qua lại thêm một tuổi! Năm ấy tôn giả đã 120 tuổi, một ngày nọ, đang đi trên đường thì tôn giả nghe một thầy tì kheo trẻ tuổi đọc một bài kệ mà trước đây Phật đã từng dạy. Đại đức đọc rằng:

“Nếu người sống trăm tuổi

Không thấy hạc thủy lão

Chi bằng sống một ngày

Mà thấy được hạc ấy”

Bài kệ đã được đọc sai hoàn toàn, đúng như tục ngữ có nói: “Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia!” Tôn giả nghe thế thì tiến đến bảo cho đại đức biết, nên đọc lại bài kệ cho đúng như sau:

“Nếu người sống trăm tuổi

Không hiểu pháp sinh diệt

Chi bằng sống một ngày

Mà hiểu rõ pháp ấy”

Đại đức nghe tôn giả bảo thế thì trở về thưa lại với thầy mình. Ông ta bực mình, bảo đệ tử:

- Ông đừng nên nghe lời A Nan nói bậy, ông ấy bây giờ đã già lẩm cẩm rồi, đã mất trí nhớ, không còn sáng suốt như trước nữa đâu. Những gì ta đã dạy thì không thể nào sai trật được!

Vị tì kheo trẻ lại đem những lời của thầy mình đến thưa với tôn giả. Thoạt nghe qua, tôn giả muốn đến hỏi vị kia tại sao lại dám thốt những lời khiếm nhã như vậy, nhưng rồi nghĩ lại, những người như thế dù nói gì cũng vô ích, nên thôi. Vốn một mực ôn hòa nhường nhịn, cho nên dù đang ở địa vị lãnh đạo giáo đoàn với đầy đủ giáo quyền tối thượng, tôn giả vẫn lấy đức nhường nhịn làm căn bản xử thế. Tuy nhiên, một thánh tăng với 120 tuổi đời như tôn giả, đối với mọi sự ở thế gian vốn sớm đã không chút gì tham luyến, huống chi, sau khi sự việc này xảy ra, càng suy gẫm lại càng thấy ngán ngẩm cõi đời. Tôn giả nghĩ: “Cõi đời này thật hết thuốc chữa! Phật nhập niết bàn chưa bao lâu mà người ta đã hiểu Phật pháp sai lạc đến như vậy, thì trong tương lai, những tà tri tà kiến nảy sinh trong giáo đoàn sẽ nhiều nữa, nói sao cho xiết! Ta vì đức Thế Tôn mà kết tập kinh điển, nhưng người ta cứ ôm giữ kiến chấp mà không hành trì đúng theo giáo pháp, thì dù ta ở lại thế gian cũng chẳng ích gì!”

Khi nghĩ như vậy, tôn giả chợt nhớ đến Phật, đến Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp v.v... rồi lại nghĩ tiếp: “Ôi! Những vị ấy như chim bay theo cơn lốc, đều đã nhập niết bàn! Giờ chỉ còn lại một mình ta, nhu khu rừng bị đốn sạch, chỉ còn lại một cây cổ thụ, dù lớn nhưng làm sao đủ để ngăn gió che mưa! Thế gian sao mà tịch mịch, thôi thì ta cũng nên nhập niết bàn!” Ý nghĩ ấy liền trở thành quyết định. Tôn giả bèn đem giáo pháp truyền lại cho đệ tử là Thương Na Hòa Tu (Sanavasin - Sanavasi), rồi ôm bát nhắm hướng Bắc mà đi về sông Hằng. Đúng vào lúc ấy, vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt Đà sắp cất quân sang đánh nước Tì Xá Li; mà sông Hằng là ranh giới giữ hai nước đó, nếu nhập diệt ở Ma Kiệt Đà thì xá lợi sẽ không được chia cho Tì Xá Li, và ngược lại, nếu nhập diệt ở Tì Xá Li thì xá lợi sẽ không được chia cho Ma Kiệt Đà. Bởi vậy, tôn giả quyết định sẽ nhập diệt ở trên không trung, ngay chính giữa sông Hằng.

Vua A Xà Thế, khi hay tin tôn giả sắp nhập niết bàn thì cơ hồ muốn té xỉu! Nhà vua tức tốc dẫn người ngựa đuổi theo, và khi đến bờ sông thì thuyền của tôn giả đã ra đến giữa dòng. Nhà vua liền sụp lạy và kêu lớn:

- Kính lạy Phật tự tại hơn hết trên thế gian! Xin người thương xót, ban cho chúng con niềm an tịnh! Kính lạy Tôn Giả sáng chói cả ba cõi! Xin Người hãy trở lại với chúng con!

Phía bờ bên kia, dân chúng nước Tì Xá Li cũng kêu lớn như vậy. Tôn giả ngồi trong thuyền trả lời:

- Tôi đã suy nghĩ kĩ rồi. Quí vị ở hai nước đang thù hận nhau, cho nên tôi mới phải nhập diệt ở giữa sông Hằng, để cho nước nào cũng có được một nửa thân thể của tôí!

Tôn giả nói xong bèn ngồi giữa hư không, nhập hỏa quang tam muội mà vào niết bàn, tụ phân nhục thân ra làm hai nửa để cho hai vương quốc cùng xây tháp thờ phụng. Dân chúng Tì Xá Li thì xây tháp tại tu viện Trùng Các (Kutagarasala), trong rừng Đại Lâm (Mahavana), phía Bắc thành phố Tì Xá Li. Dân chúng Ma Kiệt Đà thì xây tháp ở cạnh tu viện Trúc Lâm, ngoại ô thành Vương Xá. Do sự việc này mà hai nước đã bãi binh, cởi bỏ hận thù, giao hảo thân thiện.

Tôn giả nhập diệt rồi, người người đều nhớ tưởng. Ôi, một con người hiền lành, hòa nhã, khiêm cung và nhẫn nhịn! Ôi, công lao của tôn giả đối với đức Thế Tôn to tát dường bao! Sự cống hiến của tôn giả cho Phật pháp vĩ đại biết chừng nào!

Về Đầu Trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết