LaoHac4rum
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Go down
avatar
laohac
Admin
Tổng số bài gửi : 73
Join date : 05/11/2017
Đến từ : Đà Nẵng
https://laohac4rum.forumvi.com

Tôn Giả Phú Lâu Na - Phần 2 Empty Tôn Giả Phú Lâu Na - Phần 2

Thu Nov 09, 2017 6:10 pm
6.- MUỐN CHO PHẬT PHÁP ĐƯỢC TRUYỀN BÁ KHẮP NHÂN GIAN:

Phú Lâu Na là người thâm trầm, thường ngày làm việc gì cũng rất cẩn trọng. Đối với người nào hay việc gì xảy ra trong tăng đoàn, tôn giả đều đắn đo, suy nghĩ chín chắn nhiều lần mới dám bày tỏ ý kiến. Chỉ riêng đối với công việc hoằng pháp thì rất mau mắn, nhiệt tình. Bất cứ có được cơ hội nào để gieo rắc hột giống bồ đề là nhất định tiến tới, không cần biết đến đắc thất hay lợi hại cho cá nhân mình.

Trong tăng đoàn, số người phụ giúp Phật công việc hoàng pháp độ sinh cũng nhiều, nhưng kể số người chịu khó lặn lội trong nhân quần xã hội để bố giáo mà không mong cầu lợi dưỡng, không sợ ma nạn, không sợ khó khăn khổ nhọc, thì ít ai sánh được với Phú Lâu Na. Có một số quí vị, tuy theo Phật học kinh luận đầy bụng, nhưng đối với chúng sinh thì không đủ từ tâm và nhiệt tình. Họ không quan tâm đến nỗi khổ sinh tử của người đời, mà cứ tự giam mình trong tháp ngà tự mãn. Lại có một số quí vị khác, đã không nhiệt tâm đối với sự nghiệp độ sinh mà lại còn để bị vướng xã hội bằng những giao tình trái đạo. Đối với cả hai hạng người này, tôn giả không bao giờ làm ngơ.

Một hôm trên đường hành hóa, khi đi ngang qua một khu rừng tịch mịch, tôn giả trông thấy một số vị tì kheo đang ẩn cư tu hành ở trong đó. Tôn giả đến trước họ, cung kính chắp tay:

- Thưa chư vị đại đức! Đã lâu tôi được biết chư vị ẩn cư trong chốn núi rừng, không để cho mình bị chìm nổi theo theo thế tục. Nhân cách của chư vị thật thanh cao, tôi rất lấy làm kính ngưỡng, nhưng tôi cũng được biết rằng, chư vị còn là những sứ giả, vâng theo từ mệnh của đức Phật để đi giáo hóa mọi nơi, tại sao chư vị không đến với nhân quần xã hội để cứu độ chúng sinh?

Các vị tì kheo ấy vừa thấy thì biết ngay đó là Phú Lâu Na. Họ rất vui mừng, liền mời ngồi, rồi đáp lại:

- Thưa đại đức! Chúng tôi cũng đã từng đi bố giáo các nơi, nhưng chúng sinh thật là khó hóa độ. Đức Thế Tôn bảo chúng ta đem pháp vị cam lộ ban phát cho người đời, nhưng họ lại cho đó là gì dơ bẩn không thể nếm được. Họ ngu si, ương ngạnh, cố chấp, và chỉ lo mê đắm trong biển dục vọng. Họ chỉ biết sát sinh để cúng tế quỉ thần cầu phước mà không biết rằng họ đang tạo ra những nghiệp nhân cho ác đạo. Chúng ta cố đưa cánh tay từ bi ra để cứu vớt, nhưng họ nhất định không chịu ngoảnh đầu ngó lại. Thưa đại đức, không phải ai ai cũng có thể nhất thời đi được trên con đường rộng lớn của chân lí. Hãy cứ để họ đi theo con đường của họ. Một khi họ đã gánh chịu các đầy đủ các quả báo đau khổ, và khi nào nhân duyên đã chín mùi thì tự nhiên là họ sẽ biết quay đầu trở về.

Nghe qua các lời ấy, tôn giả hiểu rằng quí vị tì kheo này cũng đã từng gặp rất nhiều trở lực, khó khăn trên bước đường hoằng hóa, khiến cho nhiệt tâm của họ đã trở nên nguội lạnh. Tuy nhiên, tôn giả vẫn cố gắng thuyết phục và cổ lệ họ:

- Thưa chư vị huynh đệ! Sự nhận thức của chư vị về con đường tu tập rất chính đáng, tôi rất cảm phục! Nhưng ý kiến của chư vị về việc hoằng pháp độ sinh thì tôi thấy không được đúng lắm. Nếu Phật pháp dễ hoằng dương và chúng sinh dễ hóa độ thì đâu cần có sự góp sức của chúng ta trong công tác ấy. Chính vì cuộc đời đầy dẫy những xấu xá dơ bẩn, và việc hoằng pháp độ sinh thì vô vàn khó khăn, vả lại, cũng để báo đáp ân đức sâu dầy của đức Thế Tôn, mà chúng ta phải nên dũng mãnh, tinh tấn để thực hiện công tác to lớn và quan trọng này.

Là những đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn, chúng ta phải lấy việc hoằng pháp làm việc nhà, lấy việc lợi sinh làm sự nghiệp, chứ không nên coi tăng đoàn là nơi lánh nạn hay viện dưỡng lão; lại cũng không nên quan niệm rằng, đã xuất gia làm tì kheo thi chỉ lo giải quyết những sinh hoạt của riêng mình, còn tất cả việc gì của người đời đều bỏ mặc, không cần phải để tâm tới. Nếu không hoằng dương Phật pháp, nếu không hóa độ chúng sinh, và cho rằng những công việc ấy không ích lợi gì cho mình, đó là đi ngược lại những giáo huấn của đức Thế Tôn. Với tâm nguyện từ bi, đức Thế Tôn sẽ không bằng lòng khi biết được chư vị có quan niệm như vậy.

Một người rất nghèo khổ, đến nỗi chỉ dám xin một xu, một cắc để sống qua ngày, mà chư vị bỗng đem đem gia tài cả vạn đồng để cho, thì người ấy có nghi ngờ cái ý tốt của chư vị hay không? Cũng như vậy, sở dĩ người đời không tiếp nhận được Phật pháp là vì họ quá nghèo thiếu mà bỗng dưng chư vị đem cho họ một gia tài Phật pháp đồ sộ, thì làm sao họ có khả năng tiếp nhận! Thưa chư vị huynh đệ! Chúng ta đang ôm ấp một tình thương vô hạn, một nhiệt tình sung mãn, thì hãy đem niềm vui chánh pháp trải khắp nhân gian; hãy đem ánh sáng trí tuệ, tình thương và oai đức của đức Thế Tôn chia khắp cho người cùng hưởng thọ, khiến cho tự thân họ dần dần trở thành nơi tịnh độ trang nghiêm. Đó là trách nhiệm của kẻ xuất gia, không thể trốn tránh, không thể từ chối. Vậy giờ đây, Phật pháp ở nước Bạt Sa (Vatsa - Vamsa) vẫn chưa được hưng thịnh, xin chư huynh đệ hãy cùng với tôi đến đó để hoằng hóa.

Chân tình và nhiẹt tâm của tôn giả đã làm cho quí vị tì kheo ẩn cư kia vô cùng xúc động. Họ đã hoan hỉ và hăng hái cùng tôn giả lên đường về vương quốc Bạt Sa ...

7.- THÁI ĐỘ TRONG KHI HÀNH HÓA:

Với một chiếc bình bát, Phú Lâu Na đã vân du cùng khắp đó đây, vừa xin ăn vừa hành đạo, trải qua thiên sơn vạn thủy, chẳng khác nào cuộc sống của một thi nhân hay một họa sĩ. Khi thì ở vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), lúc thì ở vương quốc Kiều tát La (Kosala); hôm nay thì ở thành Tì Xá Li (Vesali), ngày mai lại đến thành Ca Thi (Kasi),... Số người được tôn giả cảm hóa, dẫn dắt về với Phật pháp thật vô cùng đông đảo, không thể nào đếm hết được. Trong tăng đoàn thật khó có ai có thể so sánh được với tôn giả về phương diện này. Ngay cả đến những nguyên nhân dù có ương ngạnh, cố chấp đến đâu, mà hễ được tôn giả lân mẫn giáo hóa thì tâm ý cũng trở nên thuần thục và hân hoan tiếp nhận Phật pháp. Do những biệt tài mà tôn giả được thành công như vậy? Nhiều vị trong đại chúng rất muốn học hỏi, vì vậy, một hôm nhân lúc nhàn đàm, một vị đã hỏi tôn giả:

- Thưa sư huynh! Trên bước đường hành hóa của sư huynh, dù là nơi thảo nguyên thôn dã, mà khi sư huynh đã đặt chân tới thì nơi đó cũng trở thành thánh địa trang nghiêm; tất cả mọi người, hễ ai nghe được pháp âm của sư huynh thì đều có được sự tĩnh lặng, an lạc. Dự thành công này trong công cuộc hoằng pháp, ngoài đức Thế Tôn ra thì trong đại chúng khó ai có thể so sánh bằng sư huynh được. Vậy làm cách nào mà sư huynh có được cái oai đức như thế?

Một cách khiêm cung, tôn giả trả lời:

- Thật ra thì tôi không biết là tôi có được những oai đức gì, chỉ có một điều là lúc nào tôi cũng nghĩ nhớ đến đức Thế Tôn. Lúc nào cũng vậy, trước khi đi hành hóa tôi đều không quên âm thầm cầu xin đức Thế Tôn hộ trì, giúp cho tôi hoàn thành sự nghiệp hóa độ, làm cho mọi người đều được an lạc, giải thoát. Tôi không cần người ta biết đến Phú Lâu Na mà chỉ mong mỏi ai ai cũng biết đến bậc Đạo Sư toàn giác của chúng ta. Cho nên, những gì đã cảm hóa được người đời, đó chính là đức Phật của chúng ta cùng với giáo pháp giác ngộ của Người, chứ cá nhân tôi thì đâu có xứng đáng gì mà đề cập tới!

Tất cả vinh quang, Phú Lâu Na đều đem qui về cho đức Phật. Quí vị tì kheo hiện diện đều cúi đầu kính phục. Rồi họ nói tiếp với vẻ lo lắng:

- Chúng tôi thấy sư huynh sống quá kham khổ! Sư huynh đã làm việc không hề nghỉ ngơi, ngoài việc thuyết pháp độ sinh còn phải kinh hành, thiền tọa; vậy mà sư huynh không chịu dùng những thức ăn uống bổ dưỡng cho thân thể thì làm sao có đủ sức khỏe để hành đạo!

Tuy rất cảm động trước chân tình của các bạn đồng tu, Phú Lâu Na vẫn đáp lại một cách khẳng khái:

- Tôi xin cảm tạ sự quan tâm của chư vị huynh đệ. Chúng ta đang sống trong biển giáo pháp của đức Phật, một chút công hạnh như vậy đâu có đáng gì để gọi là tân khổ. Đức Thế Tôn của chúng ta đã từng trải qua bao kiếp tu hành, độ sinh, có khi một ngày chỉ ăn có một hột mè hoặc một hột lúa, có khi đem bố thí đầu, mắt, hoặc cả thân mạng, thì cái tân khổ ấy còn có thể hình dung được chăng! Cứ sau mỗi lần đi hành hoá, tôi lại trở về để được ngồi trước mặt Người, được nghe những lời dạy bảo của Người, và chính cái pháp vị cam lồ ấy là món bổ dưỡng tốt nhất, quí nhất cho huệ mạng của tôi.

Ở những nơi tôi hành cưóc vân du, tất cả cỏ cây sông núi đều đón chào, mỉm cười và khích lệ tôi; ánh sáng trí tuệ của đức Thế Tôn lúc nào cũng bảo vệ thân thể tôi; tâm của Người luôn luôn sống động trong tâm tôi. Vì vậy mà không bao giờ tôi cảm thấy bị khổ cực. Thưa chư huynh đệ, cứ mỗi lần tôi trông thấy hành ngàn, hàng vạn người quay về trước đức Thế Tôn chắp tay đảnh lễ, là tôi vô cùng vui mừng, xúc động. Tôi cũng hướng về Người, chắp tay đảnh lễ để xin Người thu nhận họ, khơi dậy trong họ niềm tin chánh pháp, và gây cho họ sức mạnh vượt tiến trên đường tu học.

Lòng chân thành của tôn giả Phú Lâu Na lại càng làm cho những người bạn tu vô cùng kính phục. Họ đều chắp tay cúi đầu tán thán công đức của tôn giả.

8.- ĐÂU CŨNG LÀ NHÀ:

Trên đường hành hóa, tôn giả Phú Lâu Na đã chu du khắp chốn nhân gian, sống cuộc đời như cánh bèo trôi nổi, không bao giờ có nơi cư trú nhất định. Ban ngày thì hoặc ở trên đại lộ, hoặc nơi ngõ hẻm, hay chốn công viên, tùy duyên hóa độ; đêm đến thì hoặc ở sườn núi, hoặc trong rừng cây, hay bên bờ sông, tĩnh tọa một mình; bước chân vô định như nước chảy mây trôi, dừng lại ở đâu thì ở đó là nhà. Cũng có lúc, vì lợi ích của việc tu học, tôn giả cũng vận động xây cất giảng đường, tịnh xá, nhưng khi giảng đường, tịnh xá hoàn thành thì tôn giả mời chư tăng đến cư trú hành đạo, còn mình thì lại ra đi, tiếp tục con đường vô định.

Tôn giả không bao giờ cất giữ tiền bạc cho riêng mình. Ngoại trừ ba chiếc áo, một bình bát và một tọa cụ, tôn giả không còn mang theo mình một thứ gì khác. Tôn giả cũng không bao giờ bận tâm tính toán trong vấn đề áo cơm. Mang bình bát đi xin ăn, tôn giả không phân biệt các thí chủ giàu nghèo, tốt xấu; không khen chê thức ăn ngon dở, bổ dưỡng hay không bổ dưỡng, vì đối với tôn giả, chỉ có pháp vị cam lồ của Phật mớí là món bổ dưỡng hạng nhất trên đời.

Một hôm đang hành hóa tại thành Câu Li (Koliya), tôn giả tình cờ gặp lại một người bạn cũ trước ở cùng quê. Sau khi chào mừng thăm hỏi, người bạn nói:

- Thưa đại đức! Tôi nghe nói mỗi ngày đại đức đều bôn ba đó đây để hành hóa. Không biết đại đức bận rộn những gì dữ vậy! Từ ngày đại đức đi xuất gia đến nay, chưa từng lần nào đại đức trở về thăm quê cũ, bà con họ hàng ai cũng mong nhớ, Đại đức ra đi đã lâu năm, ruộng vườn, nhà cửa, gia sản đều không có, sao mà nghèo khổ đến thế này! Bao giờ thì đại đức trở về thăm nhà?

Phú Lâu Na trả lời:

- Thưa thí chủ! Được gặp lại thí chủ hôm nay, tôi thật vui mừng vô hạn. Tôi quả là rất bận rộn, vì luôn luôn phải lo làm sao cho mọi người đều xa lìa được đau khổ và đạt được an vui, hạnh phúc. Tôi bây giờ đã là đệ tử của Phật, tới đâu cũng là gia hương, với ai cũng là người thân thuộc. Tôi không còn phải tự trói buộc mình trong những ruộng vường và gia sản riêng tư; những thứ đó vốn dĩ là vô thường, huyễn hóa. Tôi rất vui được đi khắp đó đây để hoằng pháp. Tôi là sứ giả của chân lí, và đang đắp đường cho chúng sinh đi đến nơi giác ngộ. Tôi xin cám ơn thí chủ và xin nhờ thí chủ khi nào về quê thì nói hộ rằng, tôi xin cám ơn tất cả mọi người đã hằng mong nhớ đến tôi. Rồi tôi cũng phải trở về một lần để thăm nom và giúp ích họ. Vậy đến lúc nào có thể trở về thì Phú Lâu Na này sẽ tức khắc trở về.

- Thưa đại đức! Mới đó mà cách xa nhau đã nhiều năm! Tôi không ngờ là sau khi theo Phật xuất gia, tinh thần của đại đức lại phấn chấn, tích cực đến thế! Đại đức luôn luôn chỉ vì mọi người mà không nghĩ gì đến bản thân mình. Tôi vô cùng kính phục. Sau này, lúc nào đại đức trở về thăm quê cũ thì nhất định chúng tôi sẽ nghênh đón long trọng, vì lúc đó đại đức sẽ đem ánh sáng Phật pháp về làm lợi ích cho dân làng chúng tôi.

- Một lần nữa xin cám ơn thí chủ. Nhất định tôi sẽ về đúng như nguyện vọng của thí chủ.

Giã biệt người bạn đồng hương, tôn giả lại tiếp tục lên đường hành hóa.

9.- PHƯƠNG PHÁP GIÁO HÓA:

Phú Lâu Na quả thật là một vị có biệt tài nói pháp không ai bằng. Bao nhiêu phương pháp giáo hóa mà đức Phật từng dùng để độ sinh như dùng phương tiện để nói pháp, tùy bệnh cho thuốc, xét rõ căn cơ để dạy bảo v.v... tôn giả đều sử dụng được đến độ tuyệt hảo. Tôn giả lúc nào cũng tự bảo, nói pháp là vì chúng sinh và cho chúng sinh, chứ không phải là vì mình và cho chính mình. Những đạo lí cao sâu huyền diệu thì chỉ dành cho một số ít người thượng căn thông tuệ; còn đối với đa số quần chúng thì tôn giả chỉ dùng những giáo pháp dễ học, dễ hành trì, để cho ai ai cũng có thể tiếp nhận và hành trì được. Có thể nói, dùng các giáo pháp khác nhau để giáo hóa cho mỗi hạng người khác nhau, là sở trường của tôn giả Phú Lâu Na.

Có lần, đứng trước một số thính chúng gồm toàn các vị y sĩ, tôn giả hỏi họ:

- Thưa quí vị! Quí vị có thể chữa trị những cơn đau nhức, bệnh tật cho người đời, nhưng đối với những chứng bệnh nan y về tâm lí như bệnh tham lam, bệnh giận dữ, bệnh ngu si v.v... thì quí vị có cách trị liệu nào không?

- Thưa đại đức! Những người thầy thuốc như chúng tôi có thể chữa trị những chứng bệnh của cơ thể như nhức đầu, đau bụng v.v... còn những bệnh về tâm lí như tôn giả vừa nói thì chúng tôi không có cách gì trị được. Vậy đại đức có thể trị được không?

- Được! Giáo pháp của Phật như nước cam lồ, có thể rửa sạch mọi thứ dơ bẩn chứa trong lòng người. Ba phép học là giới, định, và tuệ cũng giống như “vạn linh đơn”, có thể chữa lành các tâm bệnh tham sân si của chúng sinh.

Có khi đối trước các vị quan lại, tôn giả hỏi:

- Với trách nhiệm và quyền hạn của một quan chức, quí vị có thể trị tội những người phạm tội, nhưng quí vị có biện pháp gì để làm cho người ta đừng phạm tội chăng?

- Thưa đại đức! Tuy rằng đã có quốc pháp, nhưng quốc pháp đó cũng không thể làm cho người ta đừng phạm tội.

- Thưa quí vị! Ngoài quốc pháp ra, quí vị và toàn thể nhân dân nên hành trì giáo pháp của Phật. Nếu ai ai cũng tin nhận và hành trì theo Năm điều răn cấm và Mười điều lành thì nhất định sẽ không có ai còn phạm tội.

Một hôm, nhân đi ngang qua một làng nọ, Phú Lâu Na dừng lại bên bờ ruộng để giáo hóa những nông phu đang làm ruộng. Tôn giả khai thị:

- Thưa quí vị! Quí vị cày ruộng, trồng lúa, tạo lương thực để nuôi dưỡng thân thể, đó là công việc vô cùng hữu ích cho mọi người. Nhưng hôm nay tôi xin mách thêm cho quí vị một phương pháp làm ruộng phước để nuôi dưỡng huệ mạng của quí vị. Quí vị có muốn biết không?

- Làm ruộng phước để nuôi dưỡng huệ mạng là cái gì, xin đại đức chỉ dạy cho! Chúng tôi đang muốn nghe.

- Quí vị hãy tin nhận giáo pháp của Phật, hãy phụng sự Tam Bảo. Đối với quí vị sa môn, hãy hết lòng cung kính. Đối với các người bệnh hoạn, nên tận tâm săn sóc. Đối với các việc công ích từ thiện, nên nhiệt tình ủng hộ. Đối với cha mẹ, phải giữ trọn niềm hiếu thuận. Đối với người trong làng xóm, nên nêu cao những điều tốt mà bỏ đi những điều xấu. Không nên giết hại các loài vật một cách bừa bãi. Đó là những cách thức làm ruộng phước tốt nhất để nuôi dưỡng huệ mạng của quí vị.

Nhờ những phương pháp giáo hóa khéo léo như vậy mà rất nhiều hạng người khác nhau trong xã hội đã có được cơ hội để qui y Tam Bảo, hành trì Phật pháp, mà các giới y sĩ, quan lại và nông dân vừa nêu trên là những ví dụ điển hình.

Tôn giả không có trú xứ cố định, cũng không có phương pháp giáo hóa nào nhất định.

Có lúc thì nói pháp ngay ở nơi lộ thiên công cộng; có lúc thì chỉ dạy riêng cho một gia đình. Khi thì dùng lời lẽ tốt đẹp để ca ngợi đức Phật; khi thì thi triển thần lực để khơi dậy lòng tin nơi người đời. Nhờ vậy, giáo pháp của đức Phật đã dễ dàng được người đời tiếp nhận, hành trì.

Về Đầu Trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết